Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018

Eugène xứ Savoie – Wikipedia tiếng Việt


Eugène, Vương công xứ Savoie (tiếng Đức: Prinz Eugen von Savoyen, tên thật là François Eugène; 18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), là một lãnh đạo quân sự, chính trị của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức và Đại Công quốc Áo. Eugène được xem là một trong những chỉ huy quân sự thành công trong lịch sử châu Âu, từng đảm nhiệm những chức vụ cao nhất trong triều đình Habsburg ở Viên. Ông sinh ra tại Paris, xuất thân trong một gia đình quý tộc gốc Savoie, và sinh trưởng trong cung đình Pháp thời Louis XIV. Do thể lực yếu đuối, Eugène ban đầu được định hướng làm giáo sĩ, nhưng năm 19 tuổi ông quyết định theo lên con đường binh nghiệp. Do vua Louis XIV không cho ông tòng quân phục vụ nước Pháp, Eugène sang Áo và tuyên bố trung thành với Vương triều Habsburg.

Trong suốt sáu thập kỷ, Eugène làm võ tướng trọng thần cho ba hoàng đế La-Đức kiêm đại công tước Áo: Leopold I, Joseph I và Karl VI. Eugène lần đầu tham chiến trong trận phòng thủ Viên trước quân Thổ-Ottoman năm 1683, kế đến tham gia Chiến tranh Liên minh Thần thánh và Chiến tranh Chín năm cùng với người anh họ là Quận công xứ Savoie. Sau khi trở thành Thống chế Đế quốc La-Đức năm 1693, Eugène sớm đạt được tiếng tăm trên khắp châu Âu nhờ việc đại phá quân Ottoman do vua Mustafa II chỉ huy trong trận Zenta vào năm 1697. Thắng lợi của quân đội La-Đức ở Zenta đã đưa đến việc ký kết Hòa ước Karlowitz (1699), đánh dấu sự bá quyền của hoàng triều Habsburg ở Nam Trung Âu. Sau khi đánh thắng người Ottoman, Eugène tiếp tục tham gia Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha; trong đó, ông đã liên kết với quân Anh của Quận công Marlborough đánh tan quân Pháp trong các trận đánh Blenheim (1704), Oudenarde (1708), và Malplaquet (1709) tại Tây Âu. Tự thân ông cũng lập nhiều chiến công lớn trên cương vị Tổng tư lệnh quân đội Đế quốc La-Đức trên mạn bắc bán đảo Ý, tiêu biểu là trận Torino (1706). Sau này, khi Áo tái chiến với Ottoman trong cuộc chiến năm 1716-1718, danh tiếng của Eugène đã được củng cố với những chiến thắng giòn giã tại Petrovaradin (1716) và Beograd (1717).

Cuối thập niên 1720, thanh thế và kỹ năng ngoại giao của Eugène đã đem lại cho nước Áo những đồng minh hùng mạnh trong các cuộc tranh chiến của họ với Pháp và chư hầu; tuy nhiên, do sức khỏe suy nhược trong những năm cuối thời, Eugène không thu được nhiều thắng lợi trên cương vị Tổng tư lệnh quân đội La-Đức trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan. Dù vậy, Eugène vẫn được vua quan Habsburg trọng vọng như một danh tướng không ai bì kịp. Tuy có nhiều nhận định trái chiều về nhân cách của Eugène, giới sử học tựu trung đều thừa nhận những công lao của ông với vương triều Habsburg: Eugène đã góp phần cứu đế quốc Habsburg khỏi sự bành trướng của Pháp; đồng thời bẻ gãy cuộc xâm lăng phương Tây của người Thổ, giải phóng Trung Âu khỏi một thế kỷ rưỡi dưới sự đô hộ của đế quốc Thổ-Ottoman. Không những là một võ tướng được mến mô, Eugène còn là một nhà bảo trợ lớn của nghệ thuật, đã cho xây cất nhiều công trình nguy nga ở kinh thành Viên. Khi đang ngủ tại nhà, ông qua đời vào ngày 21 tháng 4 năm 1736, hưởng thọ 72 tuổi.





Trận giải vây Viên ngày 12 tháng 9 năm 1683.

Tháng 5 năm 1683, mối đe dọa từ người Thổ với Viên – đế đô Đế quốc La Mã Thần thánh – đã trở thành hiện thực. Được sự khích lệ của lực lượng khởi nghĩa Hungary do Imre Thököly cầm đầu, Thái tể Ottoman Kara Mustafa Pasha đem 10–20 vạn quân xâm lược Hungary thuộc Áo.[1] Đến tháng 7 năm 1683, 9 vạn quân chủ lực của Kara Mustafa đã áp sát chân thành Viên. Tình huống cấp bách này buộc Hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold I phải chạy sang lánh nạn ở Passau trên thượng lưu sông Donau.[2] Eugène đã đến doanh trại của Leopold I vào giữa tháng 8 năm 1683.

Dù Eugène không phải người gốc Áo, Leopold I đã cho ông vào quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh vì những lý do sau: Eugène có dòng máu họ Habsburg trong lai lịch của mình Ông nội Eugène là Tommaso Francesco, tiên tổ nhánh Carignano họ Savoia/Savoie, là con của Catherine Michelle – con gái vua Felipe II nhà Habsburg bên Tây Ban Nha – và là chắt của Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V. Nhưng hơn thế nữa Eugène là em con chú của Quận công Vittorio Amadeo xứ Savoie – một kẻ thù lớn của vua Pháp, nên Leopold I tin rằng mối quan hệ này sẽ giúp ích của ông ta trong các cuộc tranh hùng với Pháp sau này.[3] Thêm vào đó, dáng vẻ và phong thái khắc khổ của Eugène đã làm đẹp lòng Leopold I và các đại thần đạm bạc của ông ta.[3][4] Dù Eugène ưa chuộng tiếng Pháp, ông thưa thỉnh với Leopold I bằng tiếng Ý vì biết vị hoàng đế này rất ghét tiếng Pháp (dù giỏi ngôn ngữ nào). Eugène cũng có kỹ năng tiếng Đức khá vững, giúp ông dễ dàng làm việc trong quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh.[5] Eugène đã thề với Leopold rằng "Tôi xin cống hiến mọi sinh lực, lòng dũng cảm và nếu cần thiết, cả giọt máu cuối cùng của tôi, để phò tá Hoàng đế Bệ hạ".[6]

Lời thế này ngay lập tức được đưa vào thử nghiệm. Tháng 9 năm 1683, quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh do quận công Karl V xứ Lothringen chỉ huy, cùng một đội quân hùng hậu của Ba Lan do vua Jan III Sobieski chỉ huy, đã hoàn tất việc chuẩn bị tập kích quân đội Ottoman. Buổi sáng ngày 12 tháng 9, liên quân Cơ Đốc giáo dàn trận tuyến trên các sườn dốc phía đông-nam quần thể rừng Wienerwald, từ trên đó họ ào xuống tấn công doanh trại khổng lồ của địch. Sau một ngày giao chiến, liên quân Ba Lan - quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh đã đánh tan đạo quân của Mustafa Kasha và đặt dấu chấm hết cho 60 ngày quân Ottoman vây khốn Viên. Sử liệu cho biết Eugène đã chiến đấu dũng cảm trong trận đánh, được cả quận công Lothringen và hoàng đế La Mã Thần thánh ngợi khen. Sau này ông được phong hàm Đại tá danh dự Trung đoàn Long kỵ binh Kufstein.[7]


Trận Zenta[sửa | sửa mã nguồn]



Thừa lúc Áo đang bận đánh Pháp, quân Ottoman tấn công chiếm lại Beograd năm 1690. Sang tháng 8 năm sau, triều đình Áo sai hầu tước Ludwig xứ Baden mở cuộc phản công đánh tan quân Ottoman trong trận Slankamen trên sông Donau, giành lại các vùng đất bị mất ở Hungary và Transylvania.[8] Tuy nhiên, Baden được điều sang đánh Pháp ở Tây Âu năm 1692 và các tổng chỉ huy kế tiếp của quân đội La-Đức là Caprara (tại nhiệm 1692-1696) và tuyển hầu tước Friedrich August xứ Sachsen (tại nhiệm 1696-1697) không giành được một thắng lợi đủ sức thuyết phục vua Ottoman đầu hàng. Nghe lời khuyên của Tổng lý quân vụ Rüdiger Starhemberg, vua Áo cử Eugène làm tổng tư lệnh quân đội Đế quốc La-Đức vào tháng 4 năm 1697.[9] Trên vai trò thống lĩnh toàn quân, Eugène có toàn quyền quyết định, không còn bị bị làm khó dễ bởi những ông tướng thận trọng quá mức như Caprara và Caraffa, và cũng không còn lệ thuộc vào bởi một người dùng binh kém như Victor Amadeus. Nhưng ông nhận ra rằng tổ chức và năng lực chiến đấu của quân đội Đế quốc La-Đức "tồi tệ đến mức không thể tả nổi".[10] Lòng tự tin và quyết tâm của Eugène, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Commercy và Guido Starhemberg) đã giúp tân tổng tư lệnh dần dần khôi phục trật tự và kỷ luật quân đội La-Đức.[11]


Chân dung Vương công Eugène xứ Savoie (1663–1736), thực hiện bởi Trường phái Vlaandereng khoảng năm 1700.

Leopold I đã khuyên Eugène nên ứng xử thận trọng, nhưng sau khi nghe tin hoàng đế Thổ Mustafa II tiến đánh Transylvania, Eugène dứt bỏ tất cả mọi ý tưởng về một chiến dịch phòng ngự và điều quân đi đón đầu quân Ottoman khi họ vượt sông Tisza tại Zenta ngày 11 tháng 9 năm 1697. Sau đó, Eugène xếp quân theo hình bán nguyệt và bất ngờ tấn công lực lượng Ottoman đang vượt sông.[12] Các đòn tiến công ào ạt của người Áo và chư hầu Đức đã xé tan đội hình quân Ottoman và làm họ tháo chạy hỗn loạn về điểm xuất phát. Trận đánh kết thúc khi đêm xuống với thắng lợi triệt để của quân đội Đế quốc La-Đức. Quân Eugène chết và bị thương khoảng 2 nghìn người, nhưng đã xóa sổ được 25 nghìn quân Ottoman – trong đó có thái tể Elmas Mehmed Pasha – và làm tan rã số quân còn sót của Mustafa II.[13] Mặc dù quân đội Thổ Ottoman khá lạc hậu so với các quân đội phương Tây về huấn luyện và tổ chức, chiến thắng Zenta đã chứng tỏ tài nghệ thao lược, tư duy quân sự táo bạo và và khả năng truyền động lực cho tướng sĩ chiến đấu, chinh phục một kẻ thù đáng gờm.[14]

Sau trận Zenta, Eugène xua quân truy kích vào vùng Bosnia thuộc Ottoman và đốt phá thành phố Sarajevo. Đến tháng 11 năm 1697, Eugène ca khúc khải hoàn về thành Viên.[15] Chiến thắng của quân đội La-Đức do Eugène lãnh đạo ở Zenta đã biến ông thành một anh hùng châu Âu, và khiến ông được vua Leopold I ban thưởng một điền trang tại Hungary. Điền trang này đã mang lại cho ông một nguồn thu nhập đáng kể, tạo điều kiện cho ông trau dồi sở thích của mình với nghệ thuật và kiến trúc. Nhưng bên cạnh sự vinh hoa phú quý mà ông mới có được, Eugène giờ đây là một người cô độc, hầu như không có bạn bè và không còn một bà con họ hàng nào: trong 4 anh trai của ông, chỉ có một người duy nhất còn sống vào thời điểm đó. Người anh thứ tư của ông là Emmanuel đã chết năm 1676 khi mới 14 tuổi; người thứ 3 là Louis Julius đã chết trong quân ngũ năm 1683, và người thứ 2 là Philippe chết do đậu mùa năm 1693. Người anh còn sót của Eugène là Louis Thomas do bất hòa với Louis XIV nên bị ông ta trục xuất khỏi Pháp. Louis Thomas phải đi khắp châu Âu để tìm kiếm sự nghiệp. Năm 1699, Louis Thomas đến Viên, và nhờ Eugène nâng đỡ nên được tuyển mộ vào quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh. Louis Thomas bỏ mạng khi chiến đấu với quân Pháp năm 1702. Trong các chị gái của Eugène, người nhỏ nhất đã chết từ khi còn thơ ấu. Hai người còn lại là Marie Jeanne-Baptiste và Louise Philiberte phải lưu lạc ở Bỉ, Thụy Sĩ và Savoie sau khi bị đuổi khỏi Pháp, và đều có đời sống phóng đãng; Marie chết yểu năm 1705 và Philibert chết năm 1726.[16]

Trận Zenta đã trở thành thắng lợi quyết định của Áo và chư hầu Đức trong đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ. Thấy vua Tây Ban Nha Carlos II đang sắp băng mà không có con nối dõi, Leopold I ký hòa ước Karlowitz chấm dứt chiến tranh với vua Ottoman ngày 26 tháng 1 năm 1699, hòng rảnh tay tập trung vào việc tranh đoạt quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha.[17]



Châu Âu buổi đầu Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha. Eugène đã đánh nhiều trận ở miền bắc Ý, Đức và Vùng đất thấp.

Ngày 1 tháng 11 năm 1700, vua Tây Ban Nha Carlos II chết mà không có con nối dõi. Carlos để lại di chiếu lập cháu nội Louis XIV là Philippe, quận công Anjou làm vua mới. Các nước Anh, Hà Lan và La-Đức phản đối việc này, vì sợ Pháp và Tây Ban Nha sẽ hợp nhất dưới sự thống trị của nhà Bourbon. Bản thân Leopold I cũng là họ hàng xa của Carlos II và có tham vọng tranh ngôi vua Tây Ban Nha.[18] Không cần đợi Anh và Hà Lan ngỏ ý muốn hợp sức, Leopold I lập tức phác thảo kế hoạch thôn tính lãnh thổ của Tây Ban Nha tại Ý. Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha bùng nổ.


Eugène vượt dãy Anpơ (1701).

Eugène dẫn 3 vạn quân vượt dãy Anpơ vào tháng 5-6 năm 1701. Sau một loạt cuộc hành quân xuất sắc, quân đội La-Đức đã đánh tan quân Pháp do Catinat chỉ huy ở trận Carpi ngày 9 tháng 7. Louis XIV gửi thư cho Catinat rằng: "Ta đã cảnh báo ông rằng ông đang gặp phải một vương tử trẻ dũng mãnh, hắn không chịu bị ràng buộc vào các nguyên tắc quân sự thông thường", rồi sa thải Catinat.[19] Ngày 1 tháng 9 Eugène đánh bại người kế nhiệm Catinat, thống chế Villeroi, trong trận Chiari, một trong những trận đánh đẫm máu nhất trên chiến trường Ý.[20] Tuy nhiên, triều đình Viên đã không chi viện đầy đủ quân nhu, tiền bạc và binh lính cho Eugène phát huy chiến thắng.[21] Ông đành chuyển sang các hình thức chiến tranh phi chính quy để chống lại quân Pháp vốn đông mạnh hơn nhiều. Ngày 31 tháng 1-1 tháng 2 năm 1702, Eugène cho quân đột kích vào Cremona, bắt được Villeroi. Nhưng quân đội La-Đức không chiếm được Cremona và Louis XIV cử Quận công Vendôme, một tướng giỏi hơn nhiều so với Villeroi, làm tư lệnh mới của phe Pháp. Eugène đã nài nỉ triều đình tăng quân nhưng không ai nghe ông.[22] Ngày 15 tháng 8, Eugène tiến quân cự nhau với Vendôme trong trận Luzzara. Quân Pháp chịu thương vong nhiều gấp đôi quân Áo, song các đợt tấn công của Eugène đã bị chặn lại. Ông đành chuyển sang cố thủ ở phía nam dãy Anpơ.[23] Đến tháng 1 năm 1703, Eugène được triệu hồi về Viên.[24]


Chủ tịch Hội đồng Chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]


Do thiếu hụt tiếp tế và sĩ khí sa sút, binh đoàn của Eugène đã không thắng lợi trong chiến dịch Ý năm 1702.[25] Từ đây quân Pháp đã có thể tiến công đất Áo theo đường Bayern (vua Bayern là Maximilian Emanuel đã tuyên bố theo phe Pháp từ tháng 8 năm 1702). Cùng lúc đó, một bộ phận dân Hungary đã nổi dậy vào tháng 5 và gây cho triều đình Áo nhiều khó khăn. Ngân sách nhà nước Áo lại dần cạn kiệt, khiến Leopold I quyết định thay đổi bộ máy cai trị. Cuối tháng 6 năm 1703, hoàng đế cử Gundaker Starhemberg thay Gotthard Salaburg làm Chủ tịch Ngân khố, còn Eugène thay Henry Mansfeld Chủ tịch Hội đồng Chiến tranh (Hofkriegsratspräsident).[26]

Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Chiến tranh, Eugène bây giờ là một trong các đại thần thân cận nhất của Leopold. Ông cũng là người chủ tịch đầu tiên từ thời Montecuccoli vừa cai quản Hội đồng Chiến tranh, vừa trực tiếp cầm quân trên chiến trường. Eugène lập tức xúc tiến các biện pháp nâng cao chất lượng quân đội Áo; ông đi ủy lạo quân sĩ, chu cấp tiền bạc cho các tướng trận, ưu tiên phong thưởng những người có công hơn là người có gốc gác quyền quý, đồng thời cải thiện kỷ luật quân đội.[27] Vương triều Áo đã gặp khủng hoảng lớn trên một số mặt trận vào năm 1703: tháng 6 năm đó, thống chế Pháp Villars hội quân với vua Bayern trên sông Donau, chuẩn bị đánh thốc vào Viên; cánh quân Pháp của Vendôme ở bắc Ý cũng rất mạnh, chỉ phải đối diện với một lực lượng mỏng của Áo do Guido Starhemberg chỉ huy. Thêm vào đó, quân nổi dậy Hungary do Francis II Rákóczi chỉ huy đã đánh bật quân đội Áo tới tận Moravia và Hạ Áo vào cuối năm đó.[27]


Trận Blenheim[sửa | sửa mã nguồn]


Quận công Marlborough chúc tụng Vương công Eugène xứ Savoy (người cưỡi ngựa) sau chiến thắng Blenheim, tranh của Robert Alexander Hillingford.

Các mâu thuẫn giữa Villars và tuyển hầu tước Bayern đã làm mất cơ hội cho họ tấn công Viên trong năm 1703, nhưng các triều đình Versailles và Madrid vẫn tin chắc rằng kinh đô Áo sẽ sớm thất thủ.[28] Từ tháng 2 năm 1703, đại sứ Đế quốc La Mã Thần thánh tại Luân Đôn Wratislaw đã hối thúc Anh và Hà Lan đưa quân đến sông Donau, nhưng chính phủ Anh tỏ ra quan tâm tới các vấn đề thuộc địa và thương mại hơn là cuộc chiến tại Nam Âu.[29] Chỉ có một số nhỏ quan lại Anh và Hà Lan nhận thức được những hậu quả tiềm tàng nếu nước Áo bại trận, và tiêu biểu nhất trong số này là đại tướng Anh - Quận công Marlborough.[30]

Đầu năm 1704, Marlborourgh quyết định tiến quân vào Nam Đức đặng đánh đuổi quân Pháp khỏi lưu vực sông Donau. Biết Eugène là một ông tướng có nhiệt huyết và kinh nghiệm dày dặn, Marlborough đã đích thân thỉnh cầu Eugène tham gia chiến dịch của mình.[31] Hai tướng gặp nhau lần đầu tiên tại ngôi làng nhỏ Mundelsheim vào ngày 10 tháng 6 và sớm hình thành một mối quan hệ hợp tác rất ăn ý.[32] Sự kết hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa hai ông đã đem lại cho phe Liên minh nhiều thắng lợi trong cuộc chiến. Trận thắng đầu tiên, và cũng là trận thắng oanh liệt nhất của bộ đôi Marlborough-Eugène diễn ra tại Blenheim vào ngày 13 tháng 8 năm 1704. Eugène chỉ huy quân cánh phải Liên minh kìm chân lực lượng đông vượt trội của tuyển hầu tước Bayern và thống chế Pháp Ferdinand de Marsin, trong khi Marlborough phá vỡ trung quân của thống chế Pháp Tallard. Kết thúc trận đánh, quân đội Liên minh đã tiêu diệt 3 vạn quân Pháp và làm tàn binh Pháp phải rút chạy về Strasbourg. Mặc dù chiến tranh còn kéo dài thêm nhiều năm nữa, chiến thắng của Marlborough - Eugène ở Blenheim đã loại Bayern khỏi vòng chiến và cứu Viên khỏi nguy cơ thất thủ. Hai tướng Liên minh đều không tiếc lời khen ngợi thành quả của nhau, và dân châu Âu ca tụng cả hai người như những anh hùng trận Blenheim. Về phần Eugène, việc ông chặn đứng quân cánh trái Pháp-Bayern tại Blenheim cùng với những yêu cầu hành động dứt khoát của ông trước trận đánh đã góp phần quyết định thắng lợi của phe Liên minh năm 1704 ở Nam Đức.[33][34]

Sau khi thua trận Blenheim, nước Pháp phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược,chuyển sang thế bị động, nhưng triều đình Leopold I chưa thể làm thế do phải đối mặt với nhiều áp lực khác: thứ nhất là do cuộc khởi nghĩa của Rákóczi đang trên đà thắng lợi; thứ hai là do Guido Starhemberg và Vittorio Amedeo (trở lại phe Liên minh chống Pháp từ năm 1703) đã không cản nổi quân Pháp của Vendôme trên mạn bắc Ý. Chỉ có thành Torino - kinh đô của Vittorio Amedeo là còn trụ vững.



Vương công Eugène trong cuộc chiến Áo-Thổ, họa phẩm của Jacob van Schuppen.

Việc Eugène giảng hòa với Pháp có nguyên nhân chính là do mối hiểm họa ngày càng gia tăng từ người Thổ ở phương Đông. Các tham vọng bành trướng của đế quốc Thổ Ottoman đã hồi sinh sau khi họ đè bẹp quân đội Nga của vua Pyotr I trên sông Pruth, và vào tháng 12 năm 1714 vua Ottoman là Ahmed III xua quân đánh chiếm bán đảo Pelopennese của Cộng hòa Venezia.[35] Từ động thái này, triều đình Viên phán đoán rằng người Thổ đang ấp ủ dự định tái chiếm Hungary và phá vỡ hòa ước Karlowitzof 1699. Sau khi các đề xuất làm trung gian của Áo bị triều đình Ottoman phủ nhận vào tháng 4 năm 1716, Karl VI truyền lệnh cho Eugène đem một đạo quân nhỏ (nhưng tinh nhuệ) đến giữ yên mạn Hungary. Trong các cuộc chiến tranh của Eugène, đây là cuộc chiến mà ông có nhiều quyền hạn chỉ huy nhất, và đây cũng là một trong số ít những cuộc chiến mà nước Áo hầu như tự lực chiến đấu và chiến thắng trong thế kỷ XVIII - XX.[36]

Eugène rời kinh đô Viên cùng 8–9 vạn quân vào đầu tháng 6 năm 1716. Đầu tháng 8 năm 1716, vua Ottoman sai con rể là thái tể Damat Ali Pasha cầm 20 vạn quân từ Beograd tiến đánh quân Eugène trên hướng tây thành Petrovaradin ở bờ bắc sông Donau.[37] Thái tể Ottoman dự định công chiếm thành trì này, nhưng Eugène quyết định ra tay trước.[38] Sau khi bác bỏ các đề xuất mang tính thận trọng của thuộc cấp, Eugène điều 7 vạn quân tấn công quân Ottoman gần Petrovaradin ngay trong buổi sáng ngày 5 tháng 8. Các đợt tiến công đầu tiên của quân La Mã Thần thánh bị lính túc vệ Ottoman đẩy lùi. Nhưng sau đó, Eugène tung kỵ binh đánh thốc vào hai bên sườn đối phương, tạo thế bao vây, tiêu diệt quân đội Thổ Ottoman. Trận đánh kết thúc với thắng lợi lớn của quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh; phía Eugène mất 5 nghìn quân chết và bị thương, nhưng số quân Ottoman bị loại khỏi vòng chiến có lẽ còn lớn hơn gấp đôi. Bản thân thái tể Ali Pasha cũng bị giết tại trận và tàn quân Ottoman chạy thục mạng về Beograd.[37]


Eugène trong trận Beograd 1717 (tranh vẽ của Johann Gottfried Auerbach). Đây là chiến thắng lớn cuối cùng trong sự nghiệp của ông.

Phát huy chiến thắng, Eugène đánh hạ thành Timișoara (tiếng Đức: Temeswar) vào giữa tháng 10 năm 1716, đặt dấu chấm hết cho 164 năm đô hộ của người Thổ tại xứ này. Sau đó, ông dồn sức chuẩn bị xâm chiếm thành phố Beograd trong năm sau. Ông coi Beograd là mục tiêu chính mà Áo cần đạt được trong cuộc chiến. Tọa lạc tại hợp lưu các sông Donau và Sava, Beograd được chốt giữ bởi 3 vạn đồn binh Ottoman do Mustapha Pasha chỉ huy.[39] Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh triển khai vây hãm Beograd vào giữa tháng 6 năm 1717, và đến cuối tháng 7 đại bác của họ đã phá hủy phần lớn thành phố. Thế trận xem chừng sẽ xoay chuyển vào đầu tháng 8, khi thái tể mới Halil Pasha đem 15–20 vạn quân tiếp viện Ottoman đến cao nguyên phía đông Beograd.[40] Trong lúc chờ thời cơ giải vây cho Beograd, Halil Pasha cho đại bác từ trên cao nguyên bắn dồn dập vào đội hình địch. Cùng lúc đó, bệnh kiết lỵ lan tràn trong hàng ngũ quân đội La-Đức gây nhiều hao tổn cho họ. Người ta đồn đại trên khắp châu Âu rằng Eugène đang sắp sửa "tới số".[41] Nhưng ông không bỏ cuộc: phán đoán rằng chỉ một thắng lợi quyết định mới cứu được quân đội ông khỏi thế nguy, Eugène quyết định tấn công đạo quân cứu viện của người Thổ. Sáng ngày 16 tháng 8, 4 vạn quân Áo và chư hầu Đức vượt qua sương mù, bất ngờ xốc tới đánh tan quân Halil Pasha, làm ông này phải thu quân chạy khỏi Beograd. 1 tuần sau đó, đồn binh Beograd đầu hàng quân đội La-Đức. Chiến thắng của Eugène tại Beograd đã xác định kết quả chung cuộc của cuộc chiến với phần thắng thuộc về đế quốc La-Đức: theo Hòa ước Passarowitz ngày 21 tháng 7 năm 1718, người Ottomon giành được Pelopennese từ tay người Venezia, nhưng phải "dâng" Timișoara, Beograd và phần lớn Serbia cho nhà Habsburg.[42] Cuộc chiến 1716-1718 đã khẳng định tên tuổi của Eugène như một viên tướng giỏi chiến trận nhất châu Âu. Khả năng chuyển bại thành thắng tại những thời điểm nguy kịch của Eugène đã được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc chiến này.[43]




Napoléon đánh giá Eugène là một trong 7 nhà cầm quân lớn nhất trong lịch sử.[44] Dù nhiều bình luận viên quân sự bất đồng với sự định giá của Napoléon, các sử gia đồng thuận rằng Eugène là tướng giỏi dùng binh nhất trong lịch sử Áo.[45] Eugène không có những thay đổi sáng tạo về sách lược quân sự và cơ cấu quân đội Đế quốc La-Đức, nhưng ông biết điều khiển hiệu quả một cơ chế khó điều khiển. Ông có tài tổ chức, tinh thông về cả chiến thuật lẫn chiến lược, luôn tin tưởng vào tầm quan trọng của việc tiến hành một trận đánh quy ước, cũng như vào khả năng biết chọn đúng thời cơ tấn công quân địch của bản thân.[45]Maurice de Saxe, một danh tướng Pháp đương thời đã viết: "Điều cần thiết là phải thấy được thời cơ và biết tận dụng nó. Vương tử Eugène có được cái phẩm chất cần có nhất trong nghệ thuật chiến này và đây là bằng chứng về một trí tuệ siêu việt nhất"[46]. Phong cách cầm quân linh hoạt của Eugène là chìa khóa đưa tới những thắng lợi quân sự của ông ở Ý và Đông Âu. Tuy nhiên, trong các chiến dịch ở Vùng đất thấp mà đặc biệt là sau trận Oudenarde năm 1708, Eugène và em họ ông là Ludwig xứ Baden lại đánh kiểu chắc ăn, nên bị dậm chân tại chỗ vào các hình thức chiến tranh công thành và bảo vệ tiếp tế kém linh động. Sau khi tấn công Toulon bất thành năm 1707, Eugène cũng do dự trong việc tổ chức các chiến dịch phối hợp lục-hải quân.[47] Tuy nhiên, sử gia Derek McKay cho rằng khiếm khuyết lớn nhất của Eugène nằm ở di sản của ông: ông đã không đào tạo, vun đắp một thế hệ nhân tài nào đủ sức thay ông quản việc binh sau khi ông chết.[45]





  1. ^ Childs: Warfare in the Seventeenth Century, 133. Childs ghi nhận quân số Ottoman là 10 vạn người; John Wolf nâng con số này lên 20v ạn.

  2. ^ Stoye: The Siege of Vienna, 114

  3. ^ a ă Henderson: Prince Eugen of Savoy, 12

  4. ^ Churchill: Marlborough: His Life and Times, Bk. 1, 467

  5. ^ The life of Prince Eugene of Savoy, Charles de Ligne

  6. ^ Henderson: Prince Eugen of Savoy, 13

  7. ^ MacMunn: Prince Eugene: Twin Marshal with Marlborough, 32

  8. ^ Setton: Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century, p. 390

  9. ^ Spielman: Leopold I of Austria, 165. Friedrich August sang Ba Lan để tranh đoạt ngôi vua xứ này vốn đang bị bỏ trống sau khi Jan III Sobieski chết năm 1696.

  10. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 43

  11. ^ Spielman: Leopold I of Austria, p. 166

  12. ^ Coxe: History of the House of Austria, II, pp. 455–456

  13. ^ Setton: Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century, 401–02. Tổn thất của quân đội Đế quốc La-Đức gồm 401 binh sĩ và 28 sĩ quan thiệt mạng, 133 sĩ quan và 1.433 binh sĩ bị thương.

  14. ^ Henderson: Prince Eugen of Savoy, p. 43

  15. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 46

  16. ^ Henderson: Prince Eugen of Savoy, 50–51

  17. ^ Coxe. History of Austria, II, p. 457

  18. ^ Wolf: The Emergence of the Great Powers: 1685–1715, p. 59

  19. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 60

  20. ^ Coxe: History of the House of Austria, II, p. 483

  21. ^ Henderson: Prince Eugen of Savoy, p. 67

  22. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 64

  23. ^ Lynn: The Wars of Louis XIV, 1667–1714, 276

  24. ^ Spielman: Leopold I of Austria, p. 188

  25. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 66. Eugene tin rằng đây là lỗi của Leopold và các đại thần như Henry Mansfeld hay Gotthard Salaburg.

  26. ^ Spielman: Leopold I of Austria, p. 189

  27. ^ a ă McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 73

  28. ^ Chandler: Marlborough as Military Commander p. 124

  29. ^ Chandler: Marlborough as Military Commander p. 125

  30. ^ Chandler: Marlborough as Military Commander p. 126

  31. ^ Churchill: Marlborough: His Life and Times, Bk. 1 vol II, p. 731

  32. ^ Lediard: The Life of John, Duke of Marlborough, I, p. 199

  33. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy p. 87

  34. ^ Churchill: Marlborough: His Life and Times, Bk. 1 vol II, p. 865

  35. ^ Coxe: History of the House of Austria, III, p. 100

  36. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, pp. 159–160

  37. ^ a ă Setton: Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century, p. 435

  38. ^ Setton: Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century, p. 435; McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 161

  39. ^ Setton: Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century, pp. 438–439

  40. ^ Coxe: History of the House of Austria, III, p. 102

  41. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 165

  42. ^ Henderson: Prince Eugen of Savoy, p. 221. By 1720 the Kingdom of Serbia was (re)established, under the governorship of Charles Alexander of Wurttemberg.

  43. ^ McKay: Prince Eugene of Savoy, p. 166

  44. ^ Henderson, Prince Eugen of Savoy, xi. Những người còn lại là Alexandros Đại đế, Hannibal, Julius Caesar, Gustav II Adolf, Turenne, và Friedrich Đại đế.

  45. ^ a ă â McKay, Prince Eugene of Savoy, p. 246–247

  46. ^ De Saxe, Maurice. Reveries on the Art of War, p. 119

  47. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên chandler224




Tài liệu sơ cấp[sửa | sửa mã nguồn]


Tài liệu thứ cấp[sửa | sửa mã nguồn]


  • Chandler, David G (1990). The Art of Warfare in the Age of Marlborough. Spellmount Limited. ISBN 0-946771-42-1

  • Chandler, David G (2003). Marlborough as Military Commander. Spellmount Ltd. ISBN 1-86227-195-X

  • Childs, John (2003). Warfare in the Seventeenth Century. Cassell. ISBN 0-304-36373-1

  • Churchill, Winston (2002). Marlborough: His Life and Times, Bk. 1, vols. i & ii. University of Chicago Press. ISBN 0-226-10633-0

  • Churchill, Winston (2002). Marlborough: His Life and Times, Bk. 2, vols. iii & iv. University of Chicago Press. ISBN 0-226-10635-7

  • Coxe, William (1864). History of the House of Austria. 6 Volumes. Henry G. Bohn

  • Ritter, Gerhard (1968), Frederick the Great: a historical profile University of California Press.

  • Duffy, Christopher (1985). Frederick the Great: A Military Life. Routledge & Kegan Paul. ISBN 0-7100-9649-6

  • Hatton, Ragnhild (2001). George I. Yale University Press. ISBN 0-300-08883-3

  • Heer, Friedrich (2002). The Holy Roman Empire (trans. George Weidenfield & Nicolson). Phoenix Press. ISBN 1-84212-600-8

  • Henderson, Nicholas (1966). Prince Eugen of Savoy. Weidenfield & Nicolson. ISBN 1-84212-597-4

  • Lynn, John A (1999). The Wars of Louis XIV, 1667–1714. Longman. ISBN 0-582-05629-2

  • MacMunn, George (1933). Prince Eugene: Twin Marshal with Marlborough. Sampson Low, Marston & CO., Ltd.

  • McKay, Derek (1977). Prince Eugene of Savoy. Thames and Hudson Ltd. ISBN 0-500-87007-1

  • McKay, Derek & Scott, H. M (1984). The Rise of the Great Powers: 1648–1815. Longman. ISBN 0-582-48554-1

  • Setton, Kenneth M. (1991). Venice, Austria, and the Turks in the Seventeenth Century. American Philosophical Society. ISBN 0-87169-192-2

  • Simms, Brendan (2008). Three Victories and a Defeat: The Rise and Fall of the First British Empire. Penguin. ISBN 978-0-14-028984-8

  • Somerset, Anne (2004). The Affair of the Poisons: Murder, Infanticide and Satanism at the Court of Louis XIV. Phoenix. ISBN 0-7538-1784-5

  • Spielman, John (1977). Leopold I of Austria. Thames and Hudson Ltd. ISBN 0-500-87005-5

  • Stoye, John (2000). The Siege of Vienna. Birlinn Ltd. ISBN 1-84341-037-0

  • Wolf, John B (1962). The Emergence of the Great Powers: 1685–1715. Harper & Row. ISBN 0061397509

Sách đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét