Quân khu 1 | |
---|---|
Quân đội nhân dân Việt Nam | |
Trần Hồng Minh từ năm 2018 | |
Quốc gia | Việt Nam |
Thành lập | 16 tháng 10, 1945 |
Quân chủng | Lục quân |
Phân cấp | Quân khu (Nhóm 3) |
Nhiệm vụ | bảo vệ 6 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bắc Ninh, Thái Nguyên |
Quy mô | khoảng 35.000 người |
Bộ phận của | Bộ Quốc phòng |
Bộ chỉ huy | Đồng Hỷ, Thái Nguyên |
Tên khác | 1941: Chiến khu Bắc Sơn-Võ Nhai 1976: Quân khu 1 |
Khẩu hiệu | Trung hiếu, Tiên phong, Đoàn kết, Chiến thắng |
Chỉ huy | |
Tư lệnh | Trần Hồng Minh |
Chính ủy | Dương Đình Thông |
Tham mưu trưởng | Trần Văn Kình |
Chỉ huy nổi tiếng | Đàm Quang Trung Đàm Văn Ngụy Phùng Quang Thanh |
Quân khu 1 là đơn vị quân sự cấp quân khu, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy quân đội chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vùng sáu tỉnh phía Bắc Việt Nam là Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bắc Ninh và Thái Nguyên. Trụ sở Bộ Tư lệnh đặt tại xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Trong kháng chiến chống Pháp[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 25 tháng 1 năm 1941, thành lập Chiến khu Bắc Sơn-Võ Nhai.
Ngày 4 tháng 6 năm 1945, Tổng Bộ Việt Minh Quyết định thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một phần các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên...
Ngày 16 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh tuyên bố tổ chức, kiện toàn, thành lập 12 Chiến khu trong cả nước. Chiến khu 1 bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Quảng Yên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Lai Châu, Sơn La và Châu Mai Đà (thuộc Hoà Bình).Ông Lê Quảng Ba được bổ nhiệm làm Khu trưởng và ông Tạ Xuân Thu làm Chính ủy Khu.[1]
Ngày 17 tháng 3 năm 1946, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trường Quân chính Bắc Sơn thuộc Chiến khu 1 với nhiệm vụ huấn luyện cán bộ trung đội, đại đội được bố trí tại xóm Cầu Tre, Đồng Quang, Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Ngày 19 tháng 8 năm 1946, Báo Chiến khu (tờ báo của lực lượng vũ trang Chiến khu 1) ra đời.
Ngày 28 tháng 11 năm 1946, Chính phủ ra Sắc lệnh 518/CP phân chia Chiến khu 1 thành 4 Chiến khu (1, 10, 12, 14) theo vùng chỉ đạo kháng chiến. Khi đó Chiến khu 1 bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phúc Yên, do Chu Văn Tấn làm Khu trưởng.[2].
Ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 19/SL về tổ chức Tòa án binh khu trên toàn cõi Việt Nam. Quy định mỗi chiến khu có một tòa án binh, với chức năng xét xử những vụ án liên quan đến lĩnh vực quân sự.
Ngày 1 tháng 5 năm 1947, Trường Du kích Lam Sơn thuộc Ban Dân quân Chiến khu 1 được thành lập, với nhiệm vụ đào tạo cán bộ trung đội, đại đội. Giữa tháng 5 năm 1947, thành lập Trường Bổ túc Quân chính Chiến khu 1.
Ngày 25 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120/SL bãi bỏ cấp Khu, sát nhập Khu thành Liên khu. Khi đó, Chiến khu 1 và Chiến khu 12 sát nhập lại thành Liên khu 1 gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, Quảng Yên và Hải Ninh, do Chu Văn Tấn làm Liên khu trưởng, Lê Hoà làm Liên khu phó, Nguyễn Trọng Vĩnh làm Chính trị uỷ viên. Cũng trong ngày đó, Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính Liên khu thống nhất thành Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu.
Ngày 3 tháng 11 năm 1948, Tổng Chính ủy ra chỉ thị về việc thi hành chế độ Chính ủy trong quân đội. Thực hiện Nghị quyết Trung ương, Bộ Tư lệnh Liên khu đã phổ biến quán triệt, hướng dẫn, chỉ đạo hình thành cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính ủy. Ở Liên khu bộ, Phòng Chính trị làm tham mưu giúp Bộ Tư lệnh Liên khu chỉ đạo thành lập 3 ban đó là Tổ chức, Tuyên huấn và Kiểm tra.
Ngày 4 tháng 11 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 127/SL hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10 thành Liên khu Việt Bắc do Chu Văn Tấn làm Chủ tịch, Bùi Quang Tạo làm Phó Chủ tịch, Lê Quảng Ba làm đặc phái viên của Bộ ở Liên khu. Tính đến thời điểm này, Liên khu Việt Bắc gồm 17 tỉnh là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Lai Châu, Sơn La. Lê Quảng Ba bổ nhiệm làm Tư lệnh, Chu Văn Tấn làm Chính ủy.[3].
Trong kháng chiến chống Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 3 tháng 6 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 017/SL thành lập các Quân khu trong đó có Quân khu Việt Bắc gồm 10 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh phúc. Lê Quảng Ba làm Tư lệnh Quân khu, Chu Văn Tấn làm Chính ủy Quân khu.[4]
Sau ngày thống nhất đất nước[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 24 tháng 5 năm 1976, sáp nhập Quân khu Tây Bắc và Quân khu Việt Bắc thành Quân khu 1 gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Sơn La, Lai Châu. Năm 1978, nhập thêm 2 tỉnh Hà Bắc và Quảng Ninh (tách ra từ Quân khu 3) và tách ra các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Sơn La, Lai Châu để thành lập Quân khu 2.
Năm 1979, tách Quảng Ninh để thành lập Đặc khu Quảng Ninh.
Từ năm 2000 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]
Địa bàn hiện tại bao gồm các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang.[5]
Từ năm 2006 thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội.[6] Tổ chức Đảng bộ trong Quân khu 1 theo phân cấp như sau:
- Đảng bộ Quân khu 1 là cao nhất.
- Đảng bộ Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Cục Kỹ thuật, các Sư đoàn, Lữ đoàn, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (tương đương cấp Sư đoàn)
- Đảng bộ các đơn vị cơ sở trực thuộc các Cục, Sư đoàn (tương đương cấp Tiểu đoàn và Trung đoàn)
- Chi bộ các cơ quan đơn vị trực thuộc các đơn vị cơ sở (tương đương cấp Đại đội)
Cơ quan trực thuộc[sửa | sửa mã nguồn]
- Văn phòng
- Thanh tra
- Phòng Tài chính
- Phòng Khoa học Quân sự
- Phòng Thông tin KHQS
- Phòng Điều tra hình sự
- Phòng Cứu hộ cứu nạn
- Phòng Kinh tế
- Tòa án Quân sự Quân khu 1
- Viện kiểm sát Quân sự Quân khu 1
Bộ Tham mưu[sửa | sửa mã nguồn]
- Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Trần Văn Kình
- Phó Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Lê Hùng
- Phó Tham mưu trưởngː Đại tá Hà Quang Vinh
- Phó Tham mưu trưởngː Đại tá Nguyễn Đức Nam
Cục Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
- Chủ nhiệm: Thiếu tướng Nguyễn Đình Long
- Phó Chủ nhiệm: Đại tá Nguyễn Đình Chiêu
- Phó Chủ nhiệm: Đại tá Ngô Quang Hưng
- Phó Chủ nhiệm: Đại tá Nguyễn Minh Thao
Cục Hậu cần[sửa | sửa mã nguồn]
- Chủ nhiệm: Đại tá Phạm Mạnh Cường
- Chính ủy: Đại tá Chu Đức Minh
- Phó Chủ nhiệm: Đại tá Hoàng Việt
Cục Kỹ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
- Chủ nhiệm: Đại tá Nguyễn Văn Thái
Đơn vị trực thuộc Quân khu[sửa | sửa mã nguồn]
Đơn vị trực thuộc Cục[sửa | sửa mã nguồn]
- Bệnh viện Quân y 110, Cục Hậu cần[18]
- Bệnh viện Quân y 91, Cục Hậu cần[19]
- Trung đoàn Vận tải 651, Cục Hậu cần[20]
- Phân đội (tiểu đoàn) Đặc công 20 (còn gọi: Đặc công Việt Bắc), Bộ Tham mưu[21]
- Tiểu đoàn Pháo binh 13, Bộ Tham mưu[21]
- Tiểu đoàn Phòng hóa 23, Bộ Tham mưu[21]
- Tiểu đoàn Trinh sát 31, Bộ Tham mưu[21]
- Kho K15, Cục Kỹ thuật[22]
- Kho K21, Cục Kỹ thuật[23]
- Kho K23, Cục Kỹ thuật[22]
- Kho K56, Cục Kỹ thuật
- Kho K818, Cục Kỹ thuật[22]
- Xưởng X79, Cục Kỹ thuật[22]
Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
Tư lệnh[sửa | sửa mã nguồn]
Chính ủy, phó Tư lệnh về Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
Tham mưu trưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Phó Tư lệnh[sửa | sửa mã nguồn]
- 1970-1978, Triệu Minh, Đại tá
- 1974-1976, Trương Cao Dũng, Đại tá
- 1974-1978, Lê Thùy, Trung tướng
- 1979-1979, Nguyễn Sùng Lãm, Trung tướng (1986)
- 1979-1983, Phạm Như Vưu, Thiếu tướng
- 1979-1987, Nguyễn Hữu Lê, Thiếu tướng
- 1980-1987, Nguyễn Xuân Trà, Thiếu tướng
- 1981-1987, Vũ Đức Thái, Thiếu tướng
- 1983-1987, Nam Hồ, Thiếu tướng
- 1988-1994, Vũ Việt Hồng, Thiếu tướng
- 1993-1995, Phạm Quang Bào, Thiếu tướng
- 1995-1997, Nguyễn Ngọc Văn, Trung tướng (2002), Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng (2000-2004)
- 1995-2000, Nông Ngọc Toàn, Thiếu tướng
- 2000-2010, Dương Công Sửu, Trung tướng (2008)
- 2004-2005, Trương Quang Khánh, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
- 2005-2007, Nguyễn Quốc Khánh, Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng
- 2007-2013, Nguyễn Văn Trình, Thiếu tướng (2008), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên[24]
- 2010-3.2015, Dương Hiền, Thiếu tướng (2009)[25],nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Lạng Sơn
- 2011-4.2015, Ngô Xuân Thứ, Thiếu tướng (2011)[25], nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Bắc Ninh
- 2013-nay, Phan Văn Tường, Thiếu tướng (2011)[26],nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên
- 4.2015-nay, Hoàng Công Hàm, Thiếu tướng (2015), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Lạng Sơn[27]
- 2016-2017, Trần Hồng Minh, Thiếu tướng (2014), nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh
- 10.2017- 02.2018, Trần Văn Kình, Thiếu tướng (2017)
- 03.2018- nay, Lê Anh Tuấn, Thiếu tướng (2018)
Phó Chính ủy[sửa | sửa mã nguồn]
- 1954-1956, Nguyễn Kim Ngọc
- 1955-1959, Lê Đình Thiệp, Thiếu tướng
- 1960-1978, Dương Đại Lâm, Đại tá
- 1969-1979, Vũ Quốc Vinh, Đại tá
- 1978-1979, Nguyễn Trọng Yên, Thiếu tướng
- 2007-2010, Đinh Thế Hòa, Thiếu tướng (2007)[28]
- 2010-2011, Nguyễn Sỹ Thăng, Trung tướng (2011)
- 2012-nay, Trần Xuân Quang, Thiếu tướng (2010)[25][29], nguyên Cục trưởng Cục Chính trị, Quân khu 1
- 2015- 05.2018, Dương Đình Thông, Thiếu tướng[30]
Chỉ huy nổi bật có quân hàm cấp tướng[sửa | sửa mã nguồn]
- 2012-nay, Vũ Bá Kính, Thiếu tướng (2012), Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 1[25]
- 2011-nay, Trần Hữu Hoàn, Thiếu tướng (2011), Tham mưu phó Quân khu 1, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng[31]
- 8.2014-nay, Lê Hùng, Thiếu tướng (12.2014), Phó Tham mưu trưởng Quân khu 1[32], nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng[33]
- 2012-nay, Triệu Văn Ngô, Thiếu tướng (2012), Phó Tham mưu trưởng Quân khu 1[34], nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Bắc Cạn[35]
- Xe Cứu hộ đa năng hạng Trung SRF[36]
- ^ "Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong cuộc Kháng chiến chống Pháp (1945-1954)", Hà Nội, 1991
- ^ Từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. Tr.608.
- ^ Sắc lệnh số 127/SL ngày 4/11/1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- ^ Sắc lệnh số 017/SL ngày 3/6/1957 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- ^ Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. Tr. 839.
- ^ “Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị (khoá IX) đã ra Nghị quyết 51/NQ-TW”.
- ^ “Sư đoàn 3 Sao Vàng “Về chiến trường xưa, Tri ân đồng đội””.
- ^ “Những người khai phá Mẫu Sơn”.
- ^ “Đoàn KTQP 799: Công bố quy hoạch Khu KTQP Bảo Lạc, Bảo Lâm”.
- ^ “Quân ủy Trung ương giám sát Đảng bộ Lữ đoàn 382”.
- ^ “Chiến sĩ Lữ đoàn 210 miệt mài luyện pháo đầu năm”.
- ^ “Lữ đoàn Công binh 575 Quân khu I kỷ niệm Ngày thành lập”.
- ^ “Lữ đoàn 409 (Quân khu 1): Làm chủ vũ khí trang bị, nâng cao trình độ chiến thuật”.
- ^ “Lữ đoàn Thông tin 601: Đảm bảo liên lạc thông suốt”.
- ^ “Trường Quân sự Quân khu 1: Gắn giáo dục đào tạo với rèn luyện xây dựng chính quy”.
- ^ “Trường bắn Quốc gia khu vực 1: Bảo đảm an toàn diễn tập, bắn đạn thật”.
- ^ “Từ chuyện mình nghĩ cho người”.
- ^ “Ngành hậu cần Quân khu 1: Luôn đi trước một bước”.
- ^ “Bệnh viện Quân y 91 chung tay vì sức khỏe cộng đồng”.
- ^ “Trung đoàn Vận tải 651 (Cục Hậu cần): Cán bộ giỏi, phong trào tốt”.
- ^ a ă â b “Trinh sát đặc nhiệm Quân khu 1 thi triển tuyệt kỹ”.
- ^ a ă â b “Cục Kỹ thuật Quân khu 1: Tổ chức Hội thi kỹ thuật năm 2014”.
- ^ “Xây đơn vị vững mạnh từ nội lực”.
- ^ “Bổ nhiệm năm 2007”.
- ^ a ă â b “Trung tướng Đàm Văn Ngụy qua đời”.
- ^ “Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc”.
- ^ “Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh Lạng Sơn vững chắc”.
- ^ “Bổ nhiệm điều động 2007”.
- ^ “ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUÂN SỰ TỈNH BẮC KẠN THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP.”.
- ^ “Đồng chí Trung tướng Đàm Văn Ngụy (Bí danh: Văn Chung) qua đời.”.
- ^ “Thực hiện tốt phương châm "Cứu rừng như cứu người"”.
- ^ “Ban Liên lạc Sư đoàn 346: Kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam”.
- ^ “THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHÊ CHUẨN NHÂN SỰ MỚI ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG”.
- ^ “850 đoàn viên, thanh niên lên đường nhập ngũ”.
- ^ “Lãnh đạo tỉnh thăm, tặng quà các gia đình chính sách tại Pác Nặm”.
- ^ “trang bị mới của Binh chủng Công binh”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét